Tết Trung thu của người Hàn Quốc

Tết Trung thu của người Hàn Quốc

Cùng nằm trong vùng văn hóa chữ Hán, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, Tết Chuseok của Hàn Quốc diễn ra vào ngày rằm tháng 8 âm lịch hằng năm. Tết Chuseok còn có tên gọi khác là 한가위 (Hangawi) trong đó “한” có nghĩa là lớn và “가위” là ở giữa. Vậy nên 한가위 có nghĩa là ngày lễ lớn giữa mùa thu.

Chuseok là ngày tết Trung Thu của người Hàn Quốc. Đây cũng được xem là một trong ba dịp lễ lớn, bên cạnh Tết Nguyên Đán và Tết Đoan Ngọ và là ngày nghỉ lễ chính thức trong năm của đất nước xứ kim chi này. Nếu ở Việt Nam tết Trung thu chỉ là ngày lễ dành cho thiếu nhi và mọi người vẫn phải đi học, đi làm như mọi ngày thì ở Hàn Quốc đây được xem là ngày nghỉ lễ chính thức trong năm. Vào dịp lễ này, người dân Hàn Quốc được nghỉ 3 ngày (14, 15 và 16 âm lịch) để có thời gian nghỉ ngơi và quây quần cùng gia đình để chuẩn bị cho một mùa Trung thu hạnh phúc, đủ đầy.

Nguồn gốc và ý nghĩa của Chuseok

Nguồn gốc của ngày lễ Chuseok

Chuseok có nghĩa là “đêm mùa thu”, đêm trăng rằm đẹp nhất vào tháng 8 âm lịch. cứ vào tháng tám hằng năm sẽ là mùa thu hoạch lúa chín, vào thời điểm này, người nông dân dâng lễ để biết ơn thần linh, tổ tiên đã giúp mùa màng bội thu và cầu nguyện cho mùa màng sau. Các gia đình sum họp, quây quần bên nhau trong bữa cơm gia đình sau buổi cúng lễ. Người nông dân có thời gian nghỉ ngơi, rảnh rang, vụ xuân cũng nhàn nhã hơn.

Sau Trung thu, Hàn Quốc bước vào mùa đông lạnh giá và khắc nghiệt, lương thực chỉ còn là những gì đã chuẩn bị được từ mùa thu.

Điều kiện khí hậu đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người Hàn Quốc. Do đó, trong xã hội hiện đại ở Hàn Quốc, ngày Tết Trung thu người người đều phải về quê xum họp với đại gia đình, trong khi ngày Tết Nguyên đán thì người Hàn Quốc có thể về quê hoặc không nhất thiết phải về quê.

Cũng giống như Việt Nam và các quốc gia Á Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, ngày Tết Chuseok (Tết Trung thu) ở Hàn Quốc cũng diễn ra vào ngày rằm tháng 8 âm lịch hàng năm. Tuy nhiên, trong quá trình giao thoa văn hóa, mỗi quốc gia dựa trên những điều kiện địa lý, lịch sử và văn hóa khác biệt, đều chỉ mượn chiếc bình hình thức để thay vào đó những men rượu riêng, thể hiện tinh thần và sức sống nội tại của riêng mình.

Trong ngày đầu tiên nghỉ Tết Trung thu ở Hàn Quốc, hàng triệu người từ thủ đô Seoul đổ về quê tạo nên nạn tắc đường khủng khiếp (thường là thời gian di chuyển gấp 3-4 lần so với ngày thường) và người Hàn Quốc gọi hiện tượng này là cuộc đại di dân.

Ý nghĩa ngày lễ Chuseok

Chuseok theo nghĩa đen có nghĩa là đêm trăng đẹp nhất mùa thu. Chuseok được xem là ngày tạ ơn đất trời, tổ tiên đã cho một mùa màng bội thu. Và là ngày để tận hưởng thành quả của một mùa đã qua. Đây cũng là thời kỳ công việc đồng áng của năm cũ khép lại. Và còn cầu mong mùa màng năm sau bội thu hơn.

Trong trồng trọt nói chung và trồng lúa nói riêng, thời điểm thu hoạch là khi mầm nở rộ và kết hạt. Điều này lặp lại theo chu kỳ từ năm này sang năm khác. Nói cách khác, nó tái sinh, giống như bản chất của mặt trăng lặp lại quá trình xoay quanh Trái Đất. Mặt Trăng hồi sinh vào lúc trăng non và cho thấy đỉnh cao sức sống vào ngày trăng tròn. Sau đó biến mất vào cuối tháng và cứ lặp lại chu kỳ đó mỗi tháng. Trong xã hội nông nghiệp, sự tái sinh của mặt trăng và bản chất tái tạo của nghề nông được coi là giống nhau.

Do đó, trăng tròn tượng trưng cho sự dư dả, dồi dào và màu mỡ. Cũng vì vậy mà lễ hội trăng rằm Hàn Quốc – đất nước vốn có truyền thống xem trọng nông nghiệp.

Các món ăn đặc trưng trong ngày lễ Chuseok

Tết Chuseok thường rơi vào thời điểm những cơn mưa rào và tiết trời nóng bức của mùa hạ dần kết thúc. Thay vào đó là tiết trời thu mát mẻ, báo hiệu cho một mùa thu hoạch nữa đang đến gần. Chuseok là lễ hội mừng vụ mùa bội thu khi trái cây và ngũ cốc dồi dào. Mọi người sẽ sử dụng gạo mới thu hoạch để nấu cơm trắng, làm bánh gạo và rượu. Vào ngày lễ này, người Hàn thương sẽ ăn những món đặc trưng theo truyền thống của Hàn Quốc.

Songpyeon (송편) – Thông phiến

Songpyeon là món ăn không thể thiếu trong Chuseok. Là món bánh tiêu biểu được làm bằng bột gạo mới, gạo không dính, có nhân là vừng, đậu, đậu đỏ… Songpyeon được làm bằng cách nhào bột gạo mới với đậu xanh tươi, hạt mè, hạt dẻ, táo tàu, khoai lang, hồng, bột quế. Gọi là Songpyeon vì mỗi khi hấp bánh đều người Hàn thường đặt vào đó lá thông. Lá thông có tác dụng làm cho bánh có vị thanh hơn.

Nếu như bánh Trung Thu ở Việt Nam được làm theo hình tròn hoặc hình vuông (tượng trưng cho trời đất) thì bánh Songpyeon được nặn thành hình bán nguyệt. Sau khi nặn xong, bánh sẽ được cho vào chõ hấp, bên dưới có lót lớp lá thông để tạo cho bánh có hương vị thanh khiết.

Vào đêm trước ngày lễ Chuseok, cả gia đình cùng nhau quây quần làm bánh Songpyeon. Bánh được tạo hình bán nguyệt với mong muốn gửi gắm mang đến tương lai tươi sáng và thành công của mọi gia đình.

Trong quan niệm của người Hàn, cô gái nào khéo tay làm ra những bánh Songpyeon có hình dáng đẹp, thì sẽ tìm được ý trung nhân tử tế. Còn phụ nữ đã có gia đình thì sẽ sinh những đứa con xinh đẹp, ngoan ngoãn. Do đó, khi làm bánh Songpyeon, họ đều rất tỉ mỉ và dồn hết tâm sức của mình để tạo ra những chiếc bánh Songpyeon xinh xắn.

Toranguk (토란국) – Canh khoai sọ

Ngoài Songpyeon, canh khoai sọ cũng là một món ăn không thể thiếu trong dịp lễ Tết Trung Thu của người Hàn. Để loại bỏ đi lớp nhớt bên ngoài, khoai sọ sẽ được luộc qua nước vo gạo hoặc nước muối. Sau đó, khoai sẽ được hầm cùng với gân bò hoặc ức bò để tạo vị thanh đạm.

Khoai sọ, tiếng Hán còn được gọi là thổ noãn – nghĩa là trứng dưới lòng đất. Vì khoai sọ chứa nhiều tinh bột và có nhớt nên khi chế biến, nhất thiết phải luộc qua nước muối hoặc nước vo gạo. Canh khoai sọ thường được ninh cùng với ức bò hoặc gân bò và được coi là món canh bổ dưỡng, thanh đạm rất thích hợp để thưởng thức vào mùa thu.

Trong ngày Chuseok, cả gia đình đến phần mộ của tổ tiên, cắt cỏ dại và dọn dẹp xung quanh mộ. Sau khi vệ sinh phần mộ xong, họ bày biện mâm lễ gồm hoa quả, ngũ cốc và các sản phẩm đã thu hoạch được trong vụ mùa dâng cúng lên tổ tiên, cầu mong bình yên, hạnh phúc và sung túc.

Baekju (백주) – Rượu trắng

Vào dịp Chuseok, người Hàn Quốc rất thích tụ tập ăn uống với gia đình, tiếp đãi bạn bè nên trên bàn tiệc không thể thiếu men rượu. Họ nâng ly chúc tụng nhau đã có mùa bội thu và thưởng thức những loại rượu được làm từ nông sản vừa mới thu hoạch. Đó có thể là những loại rượu truyền thống của Hàn Quốc như, rượu soju, rượu gạo,…

Trò chơi truyền thống trong Tết Trung Thu Hàn Quốc

Múa ganggangsullae(강강술래) – Điệu nhảy vòng tròn Hàn Quốc

Ganggangsullae cũng là một trong những hoạt động nghệ thuật tiêu biểu dịp Chuseok. Trong quan niệm của nhà nông, trăng rằm là biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở. Trăng tròn cũng được ví như là đỉnh cao của sự thăng hoa về cái đẹp của thiên nhiên và của người phụ nữ. Thời điểm trăng tròn báo hiệu người phụ nữ đã đến kỳ “khai hoa nở nhụy”.

Trong đêm trăng tròn vụ mùa hoặc vào ngày lễ Chuseok, những người phụ nữ mặc Hanbok (한복) nắm tay tạo thành một vòng tròn và cùng nhau hát.

Có nhiều câu chuyện về nguồn gốc của điệu nhảy này. Tương truyền, Ganggangsullae bắt nguồn từ những người phụ nữ thuộc tỉnh Seonam Haean (서남 해안). Ngoài ra, có câu chuyện kể rằng Ganggangsullae có từ Triều đại Joseon (1392-1910). Lúc bấy giờ, quân đội Hàn Quốc cho phụ nữ trẻ trong làng mặc quân phục và đứng thành vòng tròn quanh núi. Quân đội Hàn Quốc đã giành không ít chiến thắng một phần nhờ có chiến thuật này.

Điệu múa ganggangsullae được xem là hoạt động nghệ thuật tiêu biểu trong dịp Tết Chuseok. Các cô gái mặc những bộ hanbok (trang phục truyền thống của người Hàn Quốc), tụ họp lại dưới ánh sáng đêm trăng rằm, nắm tay nhau xếp thành vòng tròn, vừa hát vừa nhảy múa.

Ssireum (씨름) – Đấu vật Hàn Quốc

Ssireum là một hoạt động không thể thiếu trong dịp Chuseok. Hoạt động này là dịp để các chàng trai được thể hiện bản lĩnh và sức mạnh của mình. Ssireum thường được tổ chức trên bãi cỏ hoặc bãi cát theo hình thức đấu loại trực tiếp. Trong trận đấu, hai đô vật đối mặt nhau ở giữa một hố cát tròn và tìm cách vật ngã đối phương bằng sức mạnh và kỹ năng của mình. Người cuối cùng trụ lại sau cùng là người chiến thắng và được vinh danh là người đàn ông khỏe nhất làng – jangsa (장사). Phần thưởng mà Jangsa sẽ được nhận là vải, gạo hoặc một con bê.

Juldarigi (줄다리기) – Kéo co

Trò chơi kéo co là trò chơi phổ biến dành cho tất mọi lứa tuổi. Các đội được phân chia đồng đều về số người, giữa các thôn xóm, các làng cũng có thể chia đội với nhau để thi thố.

Số người tham gia càng đông thì sợi dây càng dày, càng to và thời gian thi càng kéo dài. Tiếng trống dồn dập, tiếng hò hét, tiếng cười và những khuôn mặt hăng say khiến cho bầu không khí thêm rộn ràng, vui nhộn.

Các thôn xóm, các làng có thể chia đội để thi đấu với nhau. Các đội được phân chia đồng đều về số người chơi. Người chơi càng nhiều thì sợi dây càng dày, càng to và thời gian càng dài. Âm thanh của tiếng trống dồn dập, tiếng hò hét, tiếng cười hòa trộn với nhau tạo bầu không khí ngày Tết Chuseok thêm rộn ràng, vui tươi.

Mặc dù kéo co thường được tổ chức trong đêm giao thừa nhưng cũng được tổ chức vào lễ Chuseok tùy theo từng vùng. Đông Quốc tuế thời ký (동국세시기) ghi lại rằng: “Theo phong tục của đảo Jeju, nam nữ tụ tập vào rằm tháng 8 hàng năm để ca hát và nhảy múa. Nếu đứt dây giữa chừng thì cả hai bên đều rơi xuống đất. Những người xem cười thành tiếng. Đây được gọi là chiếu lý chi hý (조리지희).”

Olgesimni (올게심니) – tục treo ngũ cốc khô trước cửa.

Olgesimni là phong tục treo ngũ cốc khô ở cửa trước. Sau khi thu hoạch, người Hàn Quốc hái những bó cốm chín, đẹp nhất để treo lên cột nhà, cửa ra vào hay hiên nhà. Những bó cốm này được dùng làm giống cho năm sau, làm bánh cúng tổ tiên, hoặc đãi khách khi có tiệc. Phong tục này thể hiện ước mong mùa màng bội thu.